Những lần tăng thuế cao của Mỹ đã kết thúc như thế nào?

Nguồn: Nghiên cứu Xinhye, tác giả: Trương Lợi Hàn, Quách Ngọc Vi, Lưu Chính Ủy

Tóm tắt

Mỹ cứ vài chục năm lại xuất hiện hiện tượng chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng. Mục đích của chính sách thương mại có thể quy về ba "R": Doanh thu (Revenue), Hạn chế (Restriction) và Đối ứng (Reciprocity). Theo đó, chính sách thương mại của Mỹ từ khi thành lập có thể chia thành ba giai đoạn:

Thứ nhất là giai đoạn bảo hộ thương mại từ năm 1789 đến 1933, trong thời gian này thuế quan dao động mạnh. Giữa cuộc Chiến tranh Độc lập Mỹ và Chiến tranh Bắc Nam, Mỹ vẫn đang ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ và tăng thu nhập tài chính là lý do chính để Mỹ tăng thuế quan. Từ năm 1863 đến 1933, với sự đa dạng hóa nguồn thu, bảo vệ ngành công nghiệp và bảo vệ tiêu chuẩn vàng trở thành lý do chính để Mỹ tăng thuế quan. Thứ hai là giai đoạn tự do thương mại từ năm 1934 đến 1973, lúc này ngành công nghiệp Mỹ đã trưởng thành, việc thúc đẩy xuất khẩu thông qua các hiệp định tương hỗ trở thành mục tiêu chính, mức thuế quan đã giảm mạnh. Tuy nhiên, vào đầu những năm 70 khi sức mạnh tương đối của ngành công nghiệp Mỹ giảm sút và cán cân thanh toán quốc tế mất cân bằng, chủ nghĩa bảo hộ thương mại lại nổi lên. Thứ ba là từ năm 1974 trở đi, Mỹ đã bước vào một giai đoạn chính sách thương mại mới với thuế quan thấp nhưng rào cản phi thuế quan phức tạp.

Sự trỗi dậy và sụp đổ của chủ nghĩa bảo hộ thương mại ở Hoa Kỳ nhiều lần cho thấy rằng: Thứ nhất, bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước, cải thiện cán cân thanh toán và giảm thâm hụt tài khóa là những động lực thường trực của chủ nghĩa bảo hộ thương mại. Thứ hai, chính sách thuế quan cao đi ngược lại làn sóng lịch sử chắc chắn sẽ không bền vững, và với sự toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc, thời gian áp thuế cao ngày càng ngắn lại. Đạo luật Thuế quan đáng ghê tởm, Đạo luật Thuế quan Smoot-Hawley và mức thuế cao của Nixon lần lượt thay đổi năm năm, bốn năm và chưa đầy một năm sau đó. Chỉ riêng luật thuế quan Dingli trùng hợp với sự gia tăng đáng kể trong sản xuất vàng toàn cầu và kéo dài trong một thời gian dài hơn. Thứ ba, nguyên nhân trực tiếp của việc chấm dứt thuế quan cao phức tạp hơn, và sự không hài lòng của người dân Mỹ với giá cao, sự phản đối của các nhóm lợi ích trong nước và các biện pháp đối phó của các đối tác thương mại có thể gây ra một bước ngoặt trong bảo hộ thương mại. Thứ tư, điểm uốn của chính sách thuế quan thường đi kèm với những thay đổi cơ bản trong hệ thống tiền tệ, chẳng hạn như đồng đô la Mỹ mất giá mạnh hoặc tăng đáng kể sản lượng vàng. Điều này có nghĩa là có thể có sự đánh đổi giữa hệ thống tiền tệ và thuế quan, và sự mất cân bằng cán cân thanh toán quá mức cuối cùng sẽ phải được sửa chữa.

I. Tổng hợp các đạo luật thuế quan chính của Mỹ

Irwin (2017) cho rằng, mục đích của chính sách thương mại của Mỹ trong lịch sử có thể được quy về ba "R": doanh thu (Revenue), hạn chế (Restriction) và đối ứng (Reciprocity). Trong đó, về doanh thu, thuế quan có thể nâng cao thu nhập tài chính của chính phủ; về hạn chế, thuế quan có thể hạn chế hàng nhập khẩu từ nước ngoài nhằm bảo vệ ngành công nghiệp trong nước; về đối ứng, việc đạt được thỏa thuận đối ứng thuế quan với nước ngoài có thể thúc đẩy xuất khẩu của Mỹ. Xuất phát từ ba mục đích trên, nhìn lại lịch sử từ khi Mỹ được thành lập, thái độ của Mỹ đối với vấn đề thuế quan và thương mại chủ yếu có thể chia thành ba giai đoạn.

1.1 Thời kỳ chủ nghĩa bảo hộ thương mại

Từ năm 1789 đến 1933, Mỹ trải qua giai đoạn công nghiệp hóa dần dần và bùng nổ kinh tế, với mục đích bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước, chủ nghĩa bảo hộ thương mại chiếm ưu thế tại Mỹ. Trong thời gian này, việc huy động ngân sách quân sự, bảo vệ chế độ bản vị vàng cũng đã một thời gian củng cố xu hướng bảo hộ thương mại trong nước của Mỹ. Trong khi đó, tình trạng kinh tế suy thoái và giá cả leo thang có thể trở thành động lực để giảm thuế quan, chế độ tỷ giá linh hoạt hơn (bỏ chế độ bản vị vàng) đã dọn đường cho việc giảm thuế quan.

1.1.1 Sau Chiến tranh Độc lập đến trước Nội chiến: Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ và huy động ngân sách quân sự

Từ năm 1789 đến 1862, tương ứng với thời kỳ giữa cuộc chiến tranh giành độc lập của Mỹ và cuộc nội chiến, Mỹ vẫn đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. Việc bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ và tăng thu nhập ngân sách chính là lý do chính khiến Mỹ tăng thuế quan. Trong giai đoạn này, mức đóng góp của thuế quan vào thu nhập ngân sách của Mỹ thường là khoảng 90%, và chính sách thuế quan toàn diện của Mỹ chủ yếu tập trung vào giai đoạn này. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy sự thay đổi lớn về mức thuế quan của Mỹ trong giai đoạn này, điều này là do thuế quan không chỉ bảo vệ sự phát triển của ngành công nghiệp Mỹ mà còn gây tổn hại đến xuất khẩu nông sản của Mỹ, từ đó tác động đến "chiếc bánh" của các nhóm lợi ích phía Nam của Mỹ.

Vào những năm 1820, cách mạng công nghiệp ở Mỹ bắt đầu gia tốc. Năm 1818, Tổng thống thứ năm của Mỹ, James Monroe, trong thông điệp trước Quốc hội đã đề xuất rằng "thuế quan đặc biệt nên bảo vệ ngành công nghiệp còn non trẻ và các ngành nghề có liên quan chặt chẽ đến sự độc lập của quốc gia". Năm 1828, chính phủ Adams đã thông qua một đạo luật thuế quan nhằm bảo vệ sự phát triển công nghiệp trong nước, nâng mức thuế quan trung bình cho các sản phẩm chịu thuế của Mỹ lên 44,8%. Đạo luật thuế quan này sau đó đã bị các nhóm lợi ích miền Nam của Mỹ gọi là "đạo luật thuế quan đáng ghét".

z6IJaQjOORMHwLalhOBVvKZoyyQvKkGsHnbCPnyA.jpeg

Đánh giá từ tác động của luật thuế quan, luật thuế quan đã làm gia tăng mâu thuẫn giữa lợi ích của miền Bắc và miền Nam ở Hoa Kỳ. Có sự xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bang công nghiệp phía bắc của Hoa Kỳ và các bang nông nghiệp ở miền Nam, với các bang phía bắc ủng hộ thuế quan cao để bảo vệ các ngành công nghiệp địa phương, trong khi các bang phía nam phụ thuộc vào xuất khẩu nông sản và có xu hướng có mức thuế thấp để thúc đẩy xuất khẩu. Quốc hội đã hạ thuế suất hai lần vào năm 1830 và 1832 do sự phản đối từ các lợi ích của miền Nam, nhưng sau khi chính quyền Jackson ký Đạo luật Thuế quan năm 1832, Nam Carolina tuyên bố Luật Thuế quan năm 1828 và 1832 là vi hiến và đe dọa rút khỏi chính phủ liên bang.

Năm 1833, Quốc hội đã thông qua một dự luật thỏa hiệp quy định giảm dần thuế quan từ năm 1834 đến năm 1842 cho đến khi tất cả các mức thuế giảm xuống còn 20%, tạm thời dập tắt cuộc tranh luận giữa các nhóm lợi ích Bắc và Nam về thuế quan. Tuy nhiên, với cuộc tổng tuyển cử của chính phủ, cuộc đấu tranh giữa lợi ích của miền Bắc và miền Nam vẫn chưa dừng lại. Năm 1837, Hoa Kỳ trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế và năm 1842, "Thuế quan đen" được ban hành, làm tăng mức thuế quan của Mỹ một lần nữa, và sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế qua đi, Đạo luật thuế quan Walker năm 1846 đã được thông qua và mức thuế quan của Mỹ đã giảm. Mãi đến năm 1861, Nội chiến Hoa Kỳ cuối cùng mới nổ ra. Năm 1861, Đạo luật thuế quan Morrill được ban hành để tài trợ cho cuộc chiến tranh. Trong bối cảnh nợ chính phủ Mỹ cao, việc Đảng Cộng hòa nắm quyền lâu dài sau chiến tranh đã cho phép Mỹ tiếp tục mức thuế cao trong một thời gian dài.

MlLIRsCruDKsyZCH5AwVUVDX6s2HI3YOCH6AetkZ.jpeg

1.1.2 Từ sau Nội chiến đến trước Đại suy thoái: Bảo vệ ngành công nghiệp và bảo vệ tiêu chuẩn vàng

Từ năm 1863 đến năm 1933, với sự cải thiện của hệ thống thuế, việc xem xét bảo vệ ngành công nghiệp và bảo vệ tiêu chuẩn vàng đã trở thành lý do chính cho việc tăng thuế ở Hoa Kỳ. Từ năm 1863 đến năm 1913, khi sự đóng góp của các loại thuế khác (như thuế tiêu thụ đặc biệt) vào doanh thu tài chính mở rộng, đóng góp của thuế quan vào doanh thu tài chính của Hoa Kỳ giảm xuống còn khoảng 50%. Sau khi thông qua thuế thu nhập vào năm 1913, tỷ lệ thuế quan trong doanh thu tài chính của Hoa Kỳ đã giảm hơn nữa và từ năm 1917 đến 1933, tỷ lệ thuế quan trong doanh thu tài chính của Hoa Kỳ đã giảm xuống dưới 20%. Đồng thời, chúng ta cũng có thể quan sát thấy rằng kể từ năm 1863, thuế nhập khẩu trung bình đối với tất cả hàng hóa ở Hoa Kỳ và thuế nhập khẩu trung bình đối với hàng hóa chịu thuế có xu hướng phân kỳ, điều này phản ánh rằng Hoa Kỳ đã bắt đầu áp đặt thuế quan đối với một số ngành công nghiệp một cách có mục tiêu để bảo vệ sự phát triển của các ngành công nghiệp trong nước ở Hoa Kỳ.

p9xVjekQh2RHxhj3XqVR2VK7FuLSBkE7mK7RnRon.jpeg

Vào cuối năm 1892, sự sụp đổ của Anh em nhà Baring đã kích hoạt một cuộc chạy đua vào Anh em nhà Baring, cũng như thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ, và dẫn đến sự phá sản và sụp đổ của nhiều công ty đường sắt Mỹ, nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái, sản xuất công nghiệp của Mỹ giảm 17% từ đỉnh cao vào tháng 5 năm 1892 xuống đáy vào tháng 2 năm 1894, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ dưới 4% năm 1892 lên hơn 12% vào năm 1894, và một lượng lớn vàng chảy ra khỏi Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ đã "trên tiêu chuẩn vàng" của hệ thống tiền tệ đã bị lung lay (Irwin, 2017). Năm 1896, McKinley được bầu làm tổng thống, và năm 1897, chính quyền McKinley đã ký "Đạo luật thuế quan Dingley", tăng mức thuế trung bình của các sản phẩm chịu thuế ở Hoa Kỳ từ 40,2% năm 1896 lên 52,4% năm 1899, đây là mức thuế trung bình cao nhất đối với hàng hóa chịu thuế sau Nội chiến Hoa Kỳ và trước Đại suy thoái năm 1929. Trong bài phát biểu nhậm chức của mình, McKinley nhấn mạnh sự cần thiết phải giảm thâm hụt tài khóa và tăng cường bảo vệ thuế quan cho ngành công nghiệp Mỹ. McKinley lập luận rằng thuế quan cao hơn sẽ cải thiện thâm hụt tài khóa, đảo ngược dòng chảy vàng và giúp khôi phục sự thịnh vượng của đất nước và bảo vệ ngành công nghiệp.

HC2vz0Gav0A2mo4fVYBvE5BE8vq2rKGd6Rkw1HbZ.jpeg

Xét từ ảnh hưởng của Đạo luật thuế quan, thật may mắn là vào khoảng thời gian mà McKinley ban hành Đạo luật thuế quan, với việc tăng cung cấp từ Úc, Nam Phi và Alaska, nguồn cung vàng toàn cầu bắt đầu tăng nhanh chóng. Dưới chế độ tiền tệ "tiêu chuẩn vàng", các điều kiện tiền tệ toàn cầu được nới lỏng đã thúc đẩy sự phục hồi kinh tế, giá tài sản bắt đầu tăng trở lại. Tuy nhiên, thời điểm trùng hợp này khiến nhiều người lúc bấy giờ cho rằng Đạo luật thuế quan của McKinley là nguyên nhân của sự phục hồi kinh tế (Irwin, 2017).

Từ năm 1895 đến năm 1900, xuất khẩu hàng hóa sản xuất của Hoa Kỳ tăng gấp đôi, từ 26% lên 35% tổng kim ngạch xuất khẩu, và xuất khẩu sản xuất tăng đáng kinh ngạc 90%. Sự gia tăng xuất khẩu hàng hóa sản xuất đã củng cố tiếng nói của một số nhà sản xuất trong nước Hoa Kỳ có nhu cầu xuất khẩu và đặt câu hỏi về sự cần thiết của thuế quan bảo hộ cao để hạn chế nhập khẩu, đỉnh điểm là ý tưởng có đi có lại như một cách tiếp cận mới đối với chính sách thương mại. Trên thực tế, Mục III của Đạo luật Thuế quan Dingley cho phép Tổng thống giảm thuế đối với một số danh sách hàng hóa nhất định cho các quốc gia thực hiện "nhượng bộ đối ứng" đối với hàng hóa của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các hiệp ước đối ứng của McKinley với nước ngoài đệ trình lên Quốc hội đều không được phê chuẩn.

Vào thế kỷ 20, sự gia tăng chi phí sinh hoạt và vấn đề độc quyền của các tập đoàn do sự gia tăng độ tập trung công nghiệp vào cuối thế kỷ trước đã dẫn đến cuộc thảo luận về thuế quan cao ở xã hội Mỹ. Mặc dù các nhà kinh tế học hoài nghi về quan điểm rằng thuế quan sẽ dẫn đến lạm phát tăng và độ tập trung công nghiệp tăng, nhưng lực lượng cấp tiến trong Đảng Cộng hòa cuối cùng đã chiếm ưu thế, vào năm 1909 Quốc hội đã thông qua Đạo luật thuế quan Payne-Aldrich (Payne-Aldrich Tariff Act), giảm mạnh tỷ lệ thuế quan (Irwin, 2017).

1.1.3 Thời kỳ Đại Khủng Hoảng: Bảo vệ ngành công nghiệp và bảo vệ chế độ bản vị vàng

Cuộc Đại suy thoái bắt đầu vào năm 1929 một lần nữa gây ra sự sụt giảm xuất khẩu ròng của Mỹ và dòng chảy vàng. Để giảm bớt tác động của cuộc Đại suy thoái, Mỹ một lần nữa chọn cách tăng thuế, tương tự như cuối thế kỷ 19. Năm 1930, chính quyền Hoover ban hành Đạo luật thuế quan Smoot-Hawley, mở rộng hơn nữa phạm vi và mức thuế trên cơ sở mức thuế cao hiện có, do đó mức thuế trung bình của các sản phẩm chịu thuế ở Hoa Kỳ tăng từ 40,1% năm 1929 lên 59,1% năm 1932. Chính quyền Hoover muốn tăng thuế để bảo vệ việc làm và giảm bớt cuộc khủng hoảng kinh tế.

Từ góc độ tác động của luật thuế quan, sau khi thực hiện Đạo luật thuế quan Smoot-Hawley tại Hoa Kỳ, các đối tác thương mại lớn của Hoa Kỳ đã áp đặt thuế quan đối với Hoa Kỳ. Từ năm 1929 đến năm 1933, nhập khẩu và xuất khẩu của Mỹ đã giảm hơn 50%. Tuy nhiên, sự sụt giảm nhập khẩu không dẫn đến sản xuất trong nước và tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm ở Hoa Kỳ là -7, 4% từ năm 1929 đến năm 1933. Đồng thời, tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ tăng mạnh và nền kinh tế trải qua giảm phát nghiêm trọng hơn, với tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ ghi nhận 24,9% vào năm 1933 và CPI trung bình hàng năm từ năm 1929 đến năm 1933 là -6,8% so với năm trước.

Như chúng tôi đã đề cập vào tháng 4 năm 2025 trong Chiến tranh thương mại vào những năm 30 của thế kỷ 20: Câu chuyện về một hệ thống tiền tệ, tỷ giá hối đoái cố định theo bản vị vàng là mấu chốt của suy thoái kinh tế bắt đầu vào năm 1929, vì vậy từ bỏ bản vị vàng và phá giá đồng nội tệ trở thành biện pháp chính sách đầu tiên được thực hiện bởi các quốc gia khác nhau. Vào tháng 9 năm 1931, Anh tuyên bố rằng họ đã từ bỏ tiêu chuẩn vàng, và đồng bảng Anh mất giá 30%, và đến năm 1935, tỷ giá hối đoái của Anh đã mất giá 141% so với ngang giá vàng năm 1929. Một số quốc gia gắn chặt hơn với đồng bảng Anh, chẳng hạn như Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, v.v., cũng đã từ bỏ bản vị vàng và phá giá tiền tệ của họ (Eichengreen & Sachs, 1985). Điều này có hiệu quả mở rộng cung tiền, giảm bớt áp lực giảm phát và tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đó tạo điều kiện cho sự phục hồi kinh tế của các quốc gia từ bỏ bản vị vàng. Khi Anh bắt đầu từ bỏ tiêu chuẩn vàng, Hoa Kỳ vẫn tuân thủ tiêu chuẩn vàng và nền kinh tế rơi vào vòng xoáy giảm phát-suy thoái. Sự suy thoái kinh tế liên tục dẫn đến sự bất mãn ngày càng tăng với chính quyền Hoover ở Hoa Kỳ, và cuối cùng Hoover đã bị Roosevelt đánh bại trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932.

Ngay sau khi Roosevelt lên nắm quyền, ông đã thực hiện Đạo luật Ngân hàng Khẩn cấp và Đạo luật Dự trữ Vàng vào tháng 3 năm 1933 và tháng 1 năm 1934, dần dần từ bỏ chế độ bản vị vàng. Sau đó, vào tháng 6 năm 1934, hai viện của Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Hiệp định đối ứng năm 1934, sửa đổi Đạo luật Thuế quan năm 1930, các nội dung chính bao gồm: thứ nhất, cho phép đàm phán các hiệp định thuế quan với các chính phủ hoặc cơ quan nước ngoài, mà không cần sự chấp thuận của Thượng viện, Tổng thống có thể tham gia vào các hiệp định thương mại với các chính phủ nước ngoài, sửa đổi thuế quan hiện có và các biện pháp hạn chế thương mại khác, nhưng phạm vi điều chỉnh được giới hạn ở mức 50%; Thứ hai là tuân theo nguyên tắc đối xử thuế quan tối huệ quốc vô điều kiện. Sau khi thông qua Đạo luật Hiệp định Thương mại Đối ứng, từ năm 1934 đến năm 1939, Hoa Kỳ đã ký tổng cộng 22 hiệp định thương mại với các quốc gia khác nhằm giảm thuế quan (Tantan, 2010) và thuế suất trung bình đối với hàng hóa bị Hoa Kỳ đánh thuế đã giảm từ 59,1% năm 1932 xuống còn 37,3% năm 1939.

1.2 Chủ nghĩa tự do thương mại

Từ năm 1934 đến 1973, Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia công nghiệp lớn nhất thế giới, trong thời gian này Hoa Kỳ đã nâng cao cờ thương mại tự do, thúc đẩy xuất khẩu của Hoa Kỳ thông qua các hiệp định tương hỗ. Tuy nhiên, vào đầu những năm 70, khi sức mạnh tương đối của ngành công nghiệp Hoa Kỳ suy yếu và mất cân bằng thanh toán quốc tế, chủ nghĩa bảo hộ thương mại lại tái xuất hiện.

Kể từ khi Luật Hiệp định Thương mại Tương hỗ được ban hành vào năm 1934, Hoa Kỳ đã giảm thuế quan để thúc đẩy thương mại thông qua hệ thống thương mại tự do song phương và đa phương, duy trì mức thuế quan thấp trong một thời gian dài. Mức thuế quan trung bình của các sản phẩm chịu thuế của Hoa Kỳ đã giảm từ 46,7% vào năm 1934 xuống còn 10,0% vào năm 1970.

Để đối phó với lạm phát đình trệ, thâm hụt tài khóa nhanh chóng, điều kiện cán cân thanh toán xấu đi và cuộc khủng hoảng đồng đô la, chính quyền Nixon đã đưa ra "Kế hoạch kinh tế mới" vào năm 1971, bao gồm kiểm soát tiền lương và giá cả, lệnh cấm trao đổi vàng sang đồng đô la và thuế quan bổ sung 10% đối với tất cả hàng nhập khẩu chịu thuế. Trong số đó, kiểm soát tiền lương và giá cả là để kiểm soát lạm phát, việc đình chỉ trao đổi vàng so với đô la Mỹ là để giảm bớt cuộc khủng hoảng đồng đô la gây ra bởi dòng chảy liên tục của vàng theo hệ thống Bretton Woods và mức thuế bổ sung 10% đối với tất cả hàng nhập khẩu chịu thuế là để giảm bớt sự suy giảm của cán cân thanh toán. Nixon đã sử dụng mức thuế 10% như một công cụ đàm phán trong nỗ lực loại bỏ thuế quan để đổi lấy sự tăng giá của các loại tiền tệ khác.

Pulj62TsJfZZtuK5AmlBwb1gxrrJtl3YaQP33aUa.jpeg

XkvFOv8WsSVQ8q02bRbBlan8Mo76LIlWou4VU7T5.jpeg

Xét về tác động của kế hoạch, "Kế hoạch Kinh tế Mới" đã có một vai trò nhất định trong việc ổn định nền kinh tế và kiểm soát lạm phát trong ngắn hạn, tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ đã tăng từ 5,2% vào năm 1970 lên 10,2% vào năm 1972, chỉ số CPI so với cùng kỳ năm trước đã giảm từ 5,7% vào năm 1970 xuống còn 3,2% vào năm 1972. Sau đó, tình trạng lạm phát đình trệ lại quay trở lại, vào năm 1974, tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ đã giảm xuống còn 8,8%, trong khi chỉ số CPI so với cùng kỳ năm trước lại tăng lên 11,0%.

Vào cuối năm 1971, Hoa Kỳ đã đạt được Thỏa thuận Smithsonian với các đối tác thương mại của mình, làm giảm giá đồng đô la so với vàng và các ngoại tệ khác được đánh giá cao so với đồng đô la, trong khi Hoa Kỳ loại bỏ thuế quan 10%. Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái được thiết lập trong Hiệp định Smithsonian không kéo dài lâu, và vào năm 1973, đồng đô la lại rơi vào khủng hoảng và hệ thống Bretton Woods sụp đổ.

1.3 Thời kỳ rào cản phi thuế quan được che đậy dưới hình thức tự do thương mại

Kể từ năm 1974, Mỹ đã thực hiện bảo vệ nền kinh tế trong nước thông qua việc thiết lập các rào cản phi thuế quan trong bối cảnh mức thuế quan tổng thể tương đối thấp. Từ năm 1975 đến 2018, mức thuế quan trung bình đối với các sản phẩm chịu thuế của Mỹ duy trì dưới 6%. Từ năm 2019, mức thuế quan trung bình đối với các sản phẩm chịu thuế của Mỹ đã tăng lên, từ 5,6% vào năm 2018 lên 7,4% vào năm 2023.

Trong thời gian này, thâm hụt thương mại của Mỹ đã nhanh chóng mở rộng. Năm 2024, thâm hụt thương mại của Mỹ đạt 9,2 triệu tỷ đô la, chiếm 3,1% GDP của Mỹ, trong khi vào năm 1974, thâm hụt thương mại của Mỹ chỉ là 4,29 tỷ đô la, chiếm 0,1% GDP của Mỹ vào thời điểm đó.

YnZyQal718oA3QNL17ZHndfeRtwipHMwkPTQqJjW.jpeg

LQZOQLOhbEf4KDDBCEhsbhQ686x0kq9n0NGAIJ8S.jpeg

Hai, Gợi ý

Không khó để nhận ra rằng, mỗi vài chục năm, Mỹ lại xuất hiện hiện tượng chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng. Từ Đạo luật thuế quan ghê tởm năm 1828 đến Đạo luật thuế quan Dingle năm 1897 cách nhau 69 năm; tiếp theo là Đạo luật thuế quan Smoot-Hawley khoảng 33 năm; 41 năm sau đó là cú sốc Nixon; và sau 47 năm, Trump bắt đầu lạm dụng chính sách thuế quan.

Bảo vệ ngành công nghiệp trong nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và giảm thâm hụt ngân sách là động cơ không thay đổi của chủ nghĩa bảo hộ thương mại. Trong giai đoạn đầu của sự công nghiệp hóa ở Mỹ, động cơ bảo vệ ngành công nghiệp trong nước mạnh mẽ hơn; trong khi đó, khi nền kinh tế Mỹ trở nên trưởng thành, đô la trở thành đồng tiền chuẩn toàn cầu, sự mất cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế và ngân sách dần trở thành nguyên nhân thúc đẩy bảo hộ thương mại.

Nhưng chính sách thuế quan cao đi ngược lại xu thế lịch sử chắc chắn không thể bền vững, và với sự sâu sắc của toàn cầu hóa, thời gian duy trì thuế quan cao ngày càng ngắn lại. Sau 5 năm thi hành Đạo luật thuế quan ghét, vào năm 1833, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua một dự luật thỏa hiệp giảm thuế quan; 4 năm sau Đạo luật thuế Smoot-Hawley, hai viện của Mỹ đã thông qua Đạo luật Thỏa thuận Thương mại Đối ứng; sự sâu sắc của toàn cầu hóa sau Thế chiến II đã khiến cho thuế quan cao khó có thể tồn tại hơn, chính sách thuế quan bổ sung của Nixon chỉ kéo dài chưa đến 1 năm. Chỉ có Đạo luật thuế Dingle trùng hợp với sự gia tăng sản lượng vàng toàn cầu, đã tồn tại trong một khoảng thời gian dài.

Nguyên nhân trực tiếp của việc chấm dứt thuế quan cao phức tạp hơn, và sự không hài lòng của người dân Mỹ với giá cao, sự phản đối của các nhóm lợi ích trong nước và các biện pháp đối phó của các đối tác thương mại có thể gây ra một bước ngoặt trong bảo hộ thương mại. Bất kể kích hoạt ngay lập tức cho việc giảm thuế, điểm uốn trong chính sách thuế quan thường đi kèm với những thay đổi cơ bản trong hệ thống tiền tệ, chẳng hạn như đồng đô la Mỹ mất giá mạnh hoặc tăng đáng kể sản lượng vàng. Điều này có nghĩa là có thể có sự đánh đổi giữa hệ thống tiền tệ và thuế quan, và sự mất cân bằng cán cân thanh toán quá mức cuối cùng sẽ phải được sửa chữa.

orCu0hL1vYnEtq70ffUoDHbBW7DIyH4Azs5TOQgv.jpeg

Xem bản gốc
Nội dung chỉ mang tính chất tham khảo, không phải là lời chào mời hay đề nghị. Không cung cấp tư vấn về đầu tư, thuế hoặc pháp lý. Xem Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm để biết thêm thông tin về rủi ro.
  • Phần thưởng
  • Bình luận
  • Chia sẻ
Bình luận
0/400
Không có bình luận
  • Ghim
Giao dịch tiền điện tử mọi lúc mọi nơi
qrCode
Quét để tải xuống ứng dụng Gate.io
Cộng đồng
Tiếng Việt
  • 简体中文
  • English
  • Tiếng Việt
  • 繁體中文
  • Español
  • Русский
  • Français (Afrique)
  • Português (Portugal)
  • Indonesia
  • 日本語
  • بالعربية
  • Українська
  • Português (Brasil)